Admin
15/09/2023
Share
Khi Tết Canh Dần đã chỉ còn tính bằng giờ và mọi người đang hối hả chuẩn bị cho ngày lễ, GS Nguyễn Đức Tồn lại say mê với “huyền thoại về cấu trúc nghĩa của từ”. Vì bài viết dài, BBT sẽ chia thành ba phần và dưới đây là phần đầu tiên.
Năm 1992, trên số 1 của tạp chí Ngôn ngữ, Giáo sư V.M.Solncev – Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học CH Liên bang Nga, nguyên Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, đã đề cập đến 4 huyền thoại ngôn ngữ học trong bài viết của mình. Các huyền thoại đó bao gồm: 1) “Ngôn ngữ truyền đạt ý nghĩ”; 2) “Ngôn ngữ phản ánh thế giới bên ngoài”; 3) “Ngôn ngữ cấu trúc thế giới bên ngoài cho người sử dụng ngôn ngữ”; 4) “Âm thanh trong ngôn ngữ là hình thức, còn ý nghĩa là nội dung”. Giáo sư V.M Solncev cho biết những luận thuyết phổ biến trong ngôn ngữ học không phản ánh thực tế ngôn ngữ học một cách đúng đắn. Người ta tin vào những luận điểm này mà không cần kiểm nghiệm, giống như sự cảm nhận huyền thoại đối với các sự kiện và hiện tượng khác của thực tế. Do đó, những luận điểm này có thể được coi là các huyền thoại ngôn ngữ học.
Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng lời ông để trình bày thêm một huyền thoại khác liên quan đến quan điểm lí thuyết ngữ nghĩa học hiện đại rất phổ biến. Đó chính là huyền thoại về cấu trúc ý nghĩa của từ.
Theo ngữ nghĩa học hiện đại, ý nghĩa của từ được hình thành từ một số nghĩa vị kết hợp theo quy tắc nhất định. U. Weinreich đã cho rằng việc phân tích nghĩa tổng quát thành các thành tố và thiết lập quan hệ giữa chúng là một động cơ quan trọng của nghiên cứu ngữ nghĩa. Trên cơ sở tư tưởng này, giáo sư Hoàng Phê đã áp dụng phân tích ngữ nghĩa để khẳng định rằng quan hệ cấp bậc tồn tại giữa các nét nghĩa của từ, bất kể có hay không có thành phần tiền giả định. Quan hệ này là một quan hệ logic, trong đó nét nghĩa đứng trước là tiền đề cho nét nghĩa đứng sau. Nét nghĩa đứng sau thuyết minh cho nét nghĩa đứng trước, và “phụ nghĩa” cho nét nghĩa đứng trước. Quan hệ này là một quan hệ tĩnh trong nghĩa của từ khi xem xét một cách cô lập. Ngoài ra, còn tồn tại một loại quan hệ động trong tổ hợp, quan hệ cấp bậc giữa các nét nghĩa, liên quan đến giá trị thông báo, chức năng và hoạt động của các nét nghĩa khi từ tham gia vào một ngữ cảnh. Hai loại quan hệ này không nhất thiết tương ứng, mà thường có mâu thuẫn.
Dựa trên phân tích ngữ nghĩa các từ đại diện, giáo sư Hoàng Phê kết luận rằng: “Nói chung, nghĩa của từ là”.
A) là một tập hợp những đặc điểm ý nghĩa có mối liên hệ quy định lẫn nhau;
Các nét nghĩa không có cùng giá trị (có mức độ quan trọng khác nhau), được thể hiện qua khả năng tham gia khác nhau vào việc thông báo.
C) Các ý nghĩ có khả năng tồn tại độc lập và có thể tương tác với ý nghĩ của các từ khác khi được kết hợp với nhau.
Cấu trúc của ý nghĩa từ là một cấu trúc hoạt động” [4,14].
Đây thực sự là một truyền thuyết về cấu trúc ý nghĩ của từ ngữ. Để làm rõ và chứng minh điều này, trước hết chúng ta cần thảo luận về khái niệm cơ bản làm nền tảng cho mọi quá trình phân tích và tranh luận. Đó chính là ý nghĩa của từ là gì?
Trong số các cuốn sách về lí luận ngôn ngữ học hiện nay, có một loạt quan điểm và định nghĩa khác nhau về ý nghĩa của từ. Trong cả trăm định nghĩa đó, chúng có thể được phân loại thành hai loại chính.
Loại đầu tiên: bao gồm các định nghĩa cho rằng nghĩa của từ là một hình thức cụ thể (đối tượng, khái niệm hoặc sự phản ánh, v.V.). Đây là những định nghĩa như: “Nghĩa của từ là một thực thể ngoài thực tế khách quan mà từ biểu thị” (Nguyễn Văn Tu), “nghĩa của từ là một ý niệm” (P. A. Budagov), “nghĩa của từ là sự phản ánh rõ ràng của các đối tượng, hiện tượng hoặc mối quan hệ trong ý thức…” (A. I. Smirnickij, Đỗ Hữu Châu), v.V…
Loại thứ hai định nghĩa nghĩa của từ là quan hệ của nó đối với đối tượng hoặc khái niệm tương ứng. Ví dụ, nghĩa của từ được hiểu là quan hệ của từ với sự vật hoặc hiện tượng mà nó biểu thị, hoặc là quan hệ của sự kiện ngôn ngữ với sự kiện ngoài ngôn ngữ. (A. A. Reformatskij, I.S Barkhuđarôv, Nguyễn Thiện Giáp, v.V…). (Xem thêm [1,119-125] để biết thêm chi tiết về vấn đề này).
Trong ngôn ngữ học hiện đại, quan điểm về nghĩa của từ là cái sự vật, hiện tượng, v.V… Mà từ biểu thị đã bị phản bác. P. H. Nowell – Smith đã chỉ ra: “Nói rằng từ có ý nghĩa không phải là nói từ biểu thị một cái gì đó, còn nói ý nghĩa là gì thì không phải là nói nó biểu thị cái gì”. Còn L. Wittgenstein khẳng định: “Gọi vật tương ứng với từ là ý nghĩa thì cách dùng này của từ ý nghĩa mâu thuẫn với các quy tắc của ngôn ngữ. Điều này có nghĩa là lẫn lộn ý nghĩa của tên gọi với cái mang tên gọi; khi nói ngài NN chết thì người ta có ý nói người mang tên này đã chết chứ không phải ý nghĩa của tên gọi đã chết”. Mặt khác, trong ngôn ngữ có nhiều loại từ và nghĩa của chúng cũng khác nhau. Cách định nghĩa về nghĩa của từ như trên chỉ phù hợp với các từ thực tế (danh từ, động từ và tính từ) có nghĩa cụ thể. Còn các từ khác như đại từ, cảm từ, từ hư thì nghĩa của chúng không được định nghĩa như vậy.
Trong cuốn sách Những vấn đề dạy và học tiếng Việt trong nhà trường, chúng tôi đã trình bày quan điểm của mình về khái niệm nghĩa của từ. Theo chúng tôi, nghĩa của từ là một hiện tượng tâm lí, tinh thần, nghĩa của từ là cái xuất hiện (hay được gợi lên) trong trí óc mọi người khi nghe thấy (hoặc đọc) từ ấy. Như vậy cũng có nghĩa là nghĩa của từ không thể nhìn thấy, nghe thấy, hay động chạm đến được… Bằng năm giác quan. Để hiểu và nhận biết được nghĩa của từ, mỗi người chỉ có thể tự cảm nhận trong trí não. Quan niệm về nghĩa từ của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với quan điểm của A.A. Potebnja – nhà ngôn ngữ học và cũng là nhà tư tưởng Nga nổi tiếng ở thế kỉ XIX. A.A. Potebnja khẳng định:” Dùng lời không thể truyền đạt được ý nghĩ của mình cho người khác, mà chỉ có thể khơi dậy cái ý nghĩ cá nhân trong con người đó”. Nhà triết học A.G. Spirkin cũng có ý kiến tương tự khi cho rằng:”Dùng lời nói chúng ta không truyền đạt mà là gây nên những ý nghĩ tương tự trong đầu của người cảm nhận”. Sau này L. Wittgenstein đã chỉ rõ: “Mối tương quan giữa tên gọi và vật được gọi tên như sau: sự tri giác tên gọi bằng thính giác gây nên trong tâm trí chúng ta hình ảnh của cái được gọi tên”.
Theo giáo sư V.M. Solncev, “ý nghĩ của một con người, nếu nói đơn giản đi một chút, là sự kết hợp của các khái niệm, tức là các ý nghĩ của từ. “Vỏ âm thanh” của từ được sử dụng để chỉ ra những ý nghĩa đó. Trong mỗi ngôn ngữ, một phát âm cụ thể (“vỏ âm thanh của từ”) có quy ước liên quan đến một ý nghĩa cụ thể (khái niệm). Thường nói rằng từ là một đơn vị mà trong đó một ý nghĩa kết hợp với một phát âm. Nếu nhiều người sử dụng cùng một ngôn ngữ (việc sử dụng một ngôn ngữ là điều kiện cần thiết để giao tiếp), cùng một ý nghĩa (khái niệm) tồn tại trong đầu của họ liên quan đến cùng một phát âm. Do đó, nếu cá nhân A nói tiếng Nga, phát ra âm D-e-r-e-v-o tương ứng với ý nghĩa (hay khái niệm) cây, thì trong tất cả những người biết tiếng Nga, âm thanh này đều gợi lên ý nghĩ về cây trong đầu họ (…). Trong hoàn cảnh nếu không có ai nắm được một ngôn ngữ khác mà có ai đó phát ra một âm trong một ngôn ngữ khác tương ứng với ý nghĩ cây, thì trong đầu người nghe không thể hình thành ý nghĩ về cây. Ví dụ: shu (tiếng Hán), Baum (tiếng Đức), tree (tiếng Anh), cây (tiếng Việt) vv… Chúng ta không “truyền đạt” ý nghĩ về cây cho người khác, mà là gợi lên ý nghĩ cá nhân về cây trong đầu họ. Vì mỗi người có trải nghiệm sống khác nhau, chuỗi âm D-e-r-e-v-o có thể gây ra trong đầu người nghe những biểu tượng không hoàn toàn giống nhau so với trong đầu người nói” [6, 14-15]. “Một tín hiệu, nếu được một người biết tiếng Nga nghe thấy, sẽ gợi lên trong đầu anh ta ý nghĩ về cây và đồng thời cho anh ta biết rằng trong đầu người nói đã xuất hiện ý nghĩ về cây.
Cách mà một hành vi thông báo đơn giản nhất hoạt động như sau. Người ta không giao tiếp bằng từng từ riêng biệt tương ứng với ý niệm mà bằng một chuỗi từ thể hiện các hình thức khác nhau của ý nghĩ như phán đoán, suy luận và những thứ tương tự. Trong những trường hợp này, cơ chế này kích thích các ý nghĩ tương ứng trong tâm trí người nghe. Tóm lại, cơ chế này cũng tương tự, chỉ là phức tạp hơn nhiều.
(Xin nhấp vào phần “Quay lại” ở cuối trang này để xem tiếp phần 2 và phần 3).